Bắc Kạn vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực củng cố, phát triển mạng lưới y tế cơ sở

TỪ NHỮNG NỖ LỰC TRONG CÔNG TÁC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHỈ THỊ 06

20 năm qua, mạng lưới y tế cơ sở ở Bắc Kạn không ngừng được củng cố và phát triển; công tác y tế dự phòng đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, các chương trình y tế dân số được triển khai đồng bộ và đạt các chỉ tiêu kế hoạch; khả năng cung ứng các dịch vụ y tế tại tuyến cơ sở ngày càng đa dạng, chất lượng khám, chữa bệnh chuyển biến tích cực; công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành từng bước được củng cố, tăng cường, đổi mới... Những kết quả này bắt nguồn từ nỗ lực của cấp ủy, chính quyền từ tỉnh tới cơ sở, từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác tuyên truyền, công tác kiểm tra, giám sát.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, hiệu quả

Sau khi Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Kế hoạch số 11-KH/TU ngày 26/6/2002 về quán triệt thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW; tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai chỉ thị đến cán bộ chủ chốt của tỉnh. Trên cơ sở đó, các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc, các ban, ngành, đoàn thể đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương, đơn vị. Việc quán triệt, học tập, tuyên truyền Chỉ thị số 06-CT/TW được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. 100% các chi, đảng bộ trực thuộc đã tổ chức quán triệt, triển khai, đạt trên 95% cán bộ, đảng viên tham gia học tập.

Thực hiện Thông báo số 126-TB/TW của Ban Bí thư, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền quán triệt nội dung; căn cứ định hướng và tình hình thực tế của địa phương, đơn vị để tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở.

Để cụ thể hóa các nội dung Chỉ thị số 06-CT/TW và Thông báo số 126- TB/TW, Tỉnh ủy đã ban hành 12 văn bản, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành 16 nghị quyết chuyên đề và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành 16 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Các mục tiêu, nhiệm vụ về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân được đưa vào Văn kiện đại hội Đảng bộ các cấp, các kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hằng năm và giai đoạn. Đồng thời, thành lập và thường xuyên kiện toàn Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe Nhân dân, có Quy chế hoạt động và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên… Từ đó, kịp thời chỉ đạo, tổ chức triển khai tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân trên địa bàn.

Phong phú, đa dạng công tác tuyên truyền

Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân luôn được các cấp, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên chú trọng. Nội dung thông tin, tuyên truyền tập trung vào các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh; các kiến thức phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân... Hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn; thông qua hệ thống báo cáo viên các cấp, tuyên truyền viên cơ sở, các hội nghị, hội thảo, hoạt động tư vấn, khẩu hiệu, pa nô, áp phích, các buổi sinh hoạt đoàn, hội, sinh hoạt chi bộ, thôn, tổ dân phố…

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thường xuyên định hướng tuyên truyền nội dung Chỉ thị số 06-CT/TW, Thông báo số 126-TB/TW và các nội dung liên quan đến công tác y tế cơ sở trên cuốn Bản tin công tác xây dựng Đảng; tại hội nghị báo cáo viên, giao ban công tác báo chí định kỳ; định hướng các địa phương, đơn vị, các cơ quan Thông tin đại chúng tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng và thường xuyên theo dõi, nắm thông tin, dư luận xã hội về các vấn đề nổi cộm để kịp thời báo cáo, tham mưu cấp ủy chỉ đạo giải quyết.

Các cơ quan thông tin, báo chí trên địa bàn tỉnh đã chủ động xây dựng chuyên trang, chuyên mục, tin, bài, phóng sự tuyên truyền sâu rộng; kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng gương điển hình tiên tiến trong việc triển khai thực hiện công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.

Thông qua công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền Chỉ thị số 06-CT/TW, Thông báo số 126-TB/TW, cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và Nhân dân đã hiểu rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mạng lưới y tế cơ sở trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành đã quyết liệt hơn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở tại địa phương. Người dân đã tích cực và chủ động tham gia các hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe triển khai tại cộng đồng.

Kiểm tra, giám sát bài bản

Công tác kiểm tra, giám sát việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở được các cấp ủy, chính quyền quan tâm chỉ đạo. Theo đó, Hội đồng nhân dân tỉnh đã triển khai các cuộc giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật liên quan đến công tác y tế cơ sở; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thực hiện giám sát, phản biện, nắm tình hình tư tưởng, dư luận xã hội liên quan đến công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; các ngành liên quan phối hợp tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện hoặc lồng ghép trong thanh tra, kiểm tra các chương trình, đề án về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với ngành y tế thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, nắm tình hình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về công tác khoa giáo, trong đó có Chỉ thị số 06-CT/TW và Thông báo số 126-TB/TW; chỉ đạo, hướng dẫn hệ thống tuyên giáo các cấp tham mưu cho cấp ủy tiến hành kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện tại các địa phương, đơn vị.

Công tác sơ kết, tổng kết Chỉ thị số 06-CT/TW được thực hiện đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở. Căn cứ kế hoạch, hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tỉnh ủy chỉ đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy phối hợp với các đơn vị liên quan tham mưu ban hành công văn, kế hoạch sơ kết 5 năm, tổng kết 10 năm, 20 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW trên địa bàn tỉnh; chỉ đạo các huyện, thành ủy, đảng ủy trực thuộc, các đảng đoàn, ban cán sự đảng tổ chức sơ kết, tổng kết tại địa phương, đơn vị đảm bảo chất lượng, tiến độ thời gian.

Qua sơ kết, tổng kết, kiểm tra, giám sát đã đánh giá đúng thực trạng tình hình, kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các nội dung của Chỉ thị số 06- CT/TW để từ đó kịp thời khắc phục khó khăn, hạn chế trong quá trình thực hiện củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở trên địa bàn.

ĐẾN NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT

Củng cố tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng lưới y tế cơsở

Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Y tế, các bộ, ngành liên quan, tỉnh đã sắp xếp tổ chức bộ máy y tế cơ sở . Đồng thời với đó là đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơ sở. Trong 20 năm qua, mạng lưới y tế cơ sở (Trung tâm y tế tuyến huyện, Trạm y tế cấp xã) trên địa bàn tỉnh đã thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ về chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân và đạt kết quả tích cực.

Về công tác y tế dự phòng: Tuyến y tế cơ sở luôn chủ động, sáng tạo, có nhiều giải pháp giúp người dân tiếp cận các dịch vụ y tế ngay tại địa phương; 100% các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh truyền nhiễm được điều tra, giám sát theo đúng quy định và được bao vây, dập tắt kịp thời, góp phần giảm bệnh nặng, giảm tử vong.

Năm 2022, 100% trạm y tế xã thực hiện truyền thông, tư vấn nâng cao nhận thức của người dân về phòng, chống bệnh ung thư; triển khai khám sàng lọc phát hiện ung thư vú, tuyến giáp, cổ tử cung và các loại ung thư khác cho các đối tượng từ 30-54 tuổi đạt 45,5%; khám sàng lọc thụ động phát hiện sớm đái tháo đường, tiền đái tháo đường đạt 96,7%; khám sàng lọc cho 144.422 người, phát hiện mới 3.689 người tăng huyết áp; điều trị ổn định, chống tái phát cho 1.135/1.303 bệnh nhân tâm thần phân liệt và bệnh nhân động kinh được phát hiện và quản lý.

Về công tác tiêm chủng: Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin năm sau tăng hơn năm trước (giai đoạn 2012-2022 đạt 94,7%). Đến nay, tỷ lệ tiêm phòng vắc xin Covid-19 cho đối tượng trên 18 tuổi: Mũi 1 đạt 98,59%; mũi 2 đạt 96,40%; mũi 3 đạt 96,73%; mũi 4 đạt 98,56%. Đối tượng từ 12 đến 17 tuổi: Mũi 1 đạt 99,33%; mũi 2 đạt 97,33%; mũi 3 đạt 85,92%. Đối tượng từ 05 đến 12 tuổi: Mũi 1 đạt 96,08%; mũi 2 đạt 87,27%.

Cán bộ Trạm Y tế xã Bằng Thành, huyện Pác Nặm đo chiều cao theo dõi tăng trưởng của trẻ

Công tác phòng, chống HIV/AIDS: Các cơ quan chức năng đã chủ động phối hợp với các đơn vị truyền thông tổ chức phát sóng, xây dựng chuyên mục tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS; ngành Y tế và các địa phương tăng cường đăng tin, bài, hình ảnh tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS trên trangthông tin điện tử, chú trọng việc lồng ghép triển khai phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư”. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, triển khai các biện pháp can thiệp giảm tác hại bằng bao cao su, bơm kim tiêm đến nhóm đối tượng nguy cơ cao như người nghiện ma túy, người nhiễm HIV, bạn tình của các đối tượng được can thiệp.

Công tác an toàn thực phẩm: Tuyến y tế cơ sở thường xuyên triển khai thực hiện các hoạt động phòng, chống ngộ độc thực phẩm trên địa bàn như tuyên truyền, hướng dẫn, điều tra, giám sát, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vụ ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; đồng thời, tham gia thẩm định điều kiện của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn theo phân cấp. Do đó, tình hình ngộ độc thực phẩm trên địa bàn tỉnh hằng năm có xu hướng giảm cả số vụ, số ca mắc và số ca tử vong.

Công tác khám bệnh, chữa bệnh và thực hiện chính sách bảo hiểm y tế (BHYT): Các cơ sở khám, chữa bệnh, cấp cứu và điều trị người bệnh được thực hiện hiệu quả, đúng quy trình, một số dịch vụ kỹ thuật cao đã được khai thác ứng dụng. Tính riêng năm 2021, 8/8 bệnh viện tuyến huyện đạt mức 3 trở lên (chất lượng khá); số giường bệnh 582/530 (đạt 109,8% kế hoạch); sự hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt tỷ lệ cao (84,84%).

Đến hết năm 2022, có 8 trung tâm y tế huyện; 102/108 trạm y tế xã đủ điều kiện khám, chữa bệnh BHYT (còn 06/108 trạm y tế không tổ chức ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT do khoảng cách từ trạm y tế đến Trung tâm y tế gần; thực hiện việc thông tuyến khám, chữa bệnh nên tập trung nhân lực cho Trung tâm y tế huyện).

Năm 2022, số lượt khám, chữa bệnh BHYT là 255.766 lượt (tăng 63,6% so với năm 2012); số điều trị nội trú là 35.032 lượt (tăng 8,7% so với năm 2012); số điều trị ngoại trú là 220.734 lượt (tăng 78% số với năm 2012)

Cán bộ y tế Trung tâm Y tế huyện Bạch Thông tận tình chăm sóc người bệnh.

Trung tâm y tế huyện, thành phố, các trạm y tế xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHYT; vận động Nhân dân tham gia BHYT; khám và tư vấn sức khỏe; khám bệnh tại nhà cho một số trường hợp và đối tượng đặc biệt; tổ chức các đợt khám, chữa bệnh lưu động tại thôn, bản khó khăn nhằm nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.

Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 02/2016/NQ- HĐND ngày 26 tháng 4 năm 2016 quy định mức hỗ trợ tăng thêm ngoài mức hỗ trợ đóng BHYT theo Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ, Nghị quyết số 40/2017/NQ-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2017 quy định mức hỗ trợ tăng thêm ngoài mức hỗ trợ đóng BHYT quy định tại Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2017 của Chính phủ cho đối tượng thuộc hộ nghèo đa chiều thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản khác, từ năm 2018-2020, tỉnh đã hỗ trợ thêm 20% mức đóng BHYT cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ 30% mức đóng BHYT cho người nghèo; hỗ trợ 10% mức đóng BHYT cho người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp có mức sống trung bình theo quy định của Chính phủ… Qua đó, góp phần duy trì và nâng tỷ lệ BHYT trên địa bàn tỉnh. Năm 2022, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 97%.

Công tác kết hợp y học cổ truyền (YHCT) với y học hiện đại luôn được tuyến y tế cơ sở quan tâm triển khai. Đến nay, 100% trung tâm y tế các huyện có bộ phận khám và điều trị bằng YHCT; 100% trạm y tế xã thực hiện khám, chữa bệnh bằng YHCT và có vườn thuốc nam hoặc bộ tranh mẫu thuốc nam theo quy định của Bộ Y tế.

Côngtácchămsócsứckhỏemẹ-trẻem/sứckhỏesinhsản: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe Bà mẹ - trẻ em/sức khỏe sinh sản tại tuyến y tế cơ sở ngày càng được triển khai mở rộng và từng bước nâng cao chất lượng.

Hoạt động quản lý sức khỏe người dân bằng sổ sức khỏe điện tử: Tỉnh đã chỉ đạo ngành chức năng thực hiện tin học hóa các hoạt động của y tế cơ sở và quản lý hồ sơ theo dõi sức khỏe của từng người dân; đồng bộ và kết nối hệ thống thông tin giữa y tế xã với y tế huyện để theo dõi, quản lý sức khỏe người dân.

Năm 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1760/QĐ-UBND phê duyệt Đề án “Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý sức khỏe và hoạt động khám, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn”, trong đó có nội dung xây dựng nhân rộng hồ sơ sức khỏe điện tử trên phạm vị toàn tỉnh và giao Sở Y tế phối hợp với các đơn vị có liên quan triển khai thực hiện. Đến hết năm 2022, tỷ lệ người dân trên địa bàn tỉnh có hồ sơ sức khỏe điện tử được cập nhật thường xuyên đạt trên 90%.

Về truyền thông, giáo dục sức khỏe: Tuyến y tế cơ sở đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền về giáo dục sức khỏe tới người dân với nội dung ngắn gọn, thiết thực, hình thức đa dạng, phong phú như qua các phương tiện truyền thông đại chúng, tuyên truyền trực tiếp, dịch vụ tư vấn sức khỏe… Do đó, các thông tin về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe đến với người dân được nhanh chóng, chính xác, góp phần làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của mọi người về bảo vệ, nâng cao sức khỏe và phòng, chống bệnh tật.

Kết quả thực hiện Chuẩn quốc gia về y tế xã: Tính đến hết năm 2022, tỉnh có 106/108 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế (đạt98,1%).

Việc phối hợp trong thực hiện công tác y tế học đường, công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi: Trên 85% các trường mầm non, phổ thông trên địa bàn tỉnh có đội ngũ nhân viên y tế học đường chuyên trách; đối với các trường không có y tế học đường chuyên trách đã bố trí giáo viên hoặc nhân viên kiêm nhiệm phụ trách công tác y tế trường học. Hằng năm, các cơ sở giáo dục đã phối hợp với các cơ sở y tế tổ chức khám sức khỏe cho 100% học sinh; tổ chức các hoạt động truyền thông phòng, chống bệnh học đường (bệnh cận thị, béo phì, răng miệng…); khám, phát hiện sớm bệnh học đường (cận thị, răng miệng…); quản lý theo dõi sức khỏe tại các trường; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bếp ăn tập thể...; triển khai thực hiện hiệu quả các hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường, vệ sinh cá nhân gắn với thực hiện phong trào thi đua xây dựng trường học xanh, sạch, đẹp, an toàn và thân thiện; 100% các cơ sở giáo dục có công trình vệ sinh, công trình nước sạch cơ bản đảm bảo sạch sẽ, góp phần xây dựng cảnh quan, môi trường giáo dục lành mạnh.

Công tác chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được quan tâm: 100% các trạm y tế xã duy trì hoạt động quản lý sức khỏe người cao tuổi, truyền thông lồng ghép cho người cao tuổi về phòng, chống các bệnh và cách tự chăm sóc sức khỏe. Tính riêng năm 2022, số người cao tuổi được quản lý: 36.381 người, trong đó số người cao tuổi được khám sức khỏe định kỳ là 33.826 người (đạt93%).

Việc phối hợp giữa y tế cơ sở với y tế tư nhân trong chăm sóc sức khỏe người dân trên địa bàn: Đến hết năm 2022, toàn tỉnh có 145 cơ sở y tế tư nhân, trong đó có 08 phòng khám đa khoa, 109 phòng khám chuyên khoa (nội, ngoại, sản, nhi, tai - mũi - họng, răng - hàm - mặt, mắt, da liễu, y học cổ truyển…), 28 phòng chẩn trị y học cổ truyền.

Hệ thống hành nghề y, dược tư nhân trên địa bàn tỉnh đã tích cực phối hợp với hệ thống y tế cơ sở ở địa phương trong cung cấp dịch vụkhám, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh, qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận các dịch vụ y tế, giảm bớt áp lực, chia sẻ trách nhiệm khám, chữa bệnh với các cơ sở y tế công lập.

Tăng cường cán bộ và trang bị kỹ thuật cho mạng lưới y tế cơ sở

Tỉnh luôn quan tâm sắp xếp, bố trí cán bộ y tế đảm bảo đủ số lượng, cơ cấu chức danh nghề nghiệp theo quy định. Nếu như năm 2002, tuyến xã và tương đương có 349 cán bộ y tế; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ làm việc 3,28%. Tuyến huyện và tương đương có 351 cán bộ y tế. Toàn tỉnh có 733 nhân viên y tế thôn, bản thì tới năm 2022, tuyến xã và tương đương có 499 cán bộ y tế; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ làm việc 100%. Tuyến huyện và tương đương có 631 cán bộ y tế. Toàn tỉnh có 1.245 nhân viên y tế thôn, bản đang hoạt động.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân lực y tế cơ sở. Giai đoạn 2011-2022, tỉnh đã cử 1.139 công chức, viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ (Tiến sĩ/Chuyên khoa II: 29, Thạc sĩ/Chuyên khoa I: 237, liên thông đại học/cao đẳng: 465); cử 225 công chức, viên chức tham gia bồi dưỡng lý luận chính trị; cử 59 công chức, viên chức tham gia các lớp bồi dưỡng lãnh đạo quản lý; 149 công chức, viên chức được bồi dưỡng ngạch chuyên viên... Hằng năm, ngành Y tế tổ chức các lớp đào tạo và cấp chứng chỉ cho cán bộ y tế cơ sở (trung bình 95-100 lớp/năm với khoảng 4.000 lượt học viên).

Thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám, chữa bệnh, Bệnh viện đa khoa tỉnh, các trung tâm chuyên môn tuyến tỉnh đã hỗ trợ chuyên môn về lâm sàng và thực hiện các chương trình y tế cho các huyện, thành phố trên địa bàn, đặc biệt là huyện Pác Nặm, Ba Bể. Các trung tâm y tế cũng thực hiện luân phiên cử bác sĩ tăng cường cho các trạm y tế xã chưa có bác sĩ, ít nhất mỗi tháng 1 đợt (1 tuần/tháng), cử cán bộ y tế hỗ trợ các trạm y tế triển khai thực hiện các chương trình y tế. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ cho người dân, giảm bớt chi phí, thời gian đi lại của người bệnh và người nhà người bệnh.

Trung tâm y tế huyện Pác Nặm triển khai hoạt động KCB tới tận các thôn, bản vùng cao.

Đến năm 2015, tỉnh đã đưa vào sử dụng 8/8 bệnh viện tuyến huyện, thành phố trực thuộc Trung tâm Y tế tuyến huyện với quy mô đầu tư từ 50 đến 80 giường, đáp ứng cơ bản điều kiện quy định về cơ sở vật chất trong công tác khám, chữa bệnh phục vụ Nhân dân. Giai đoạn 2016-2022, ngoài việc bảo trì, bảo dưỡng và cải tạo sửa chữa nhỏ hằng năm, không có phát sinh đầu tư xây mới. Đồng thời, xây dựng mới, cải tạo nâng cấp nhiều trạm y tế đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến năm 2020 (đến hết năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 106/108 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã). Các trung tâm y tế, trạm y tế xã được trang bị thiết bị y tế cơ bản phục vụ cho công tác chẩn đoán và điều trị. Hằng năm, được bổ sung một số trang thiết bị y tế từ nguồn trái phiếu Chính phủ, một số dự án, kinh phí địa phương. Ngoài ra, các đơn vị đã chủ động sử dụng nguồn quỹ BHYT, nguồn thu từ hoạt động khám, chữa bệnh và các nguồn hợp pháp khác để tái đầu tư, mua sắm trang thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh trên địa bàn.

Các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh đảm bảo cung ứng cơ bản đủ thuốc thiết yếu cho nhu cầu khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng và phòng, chống thiên tai, dịch bệnh tại địa phương; các đơn vị đã thành lập Hội đồng Thuốc và Điều trị, trong đó quan tâm thực hiện công tác dược lâm sàng, thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc (ADR)… hướng tới sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và hiệu quả. Tăng cường quản lý hệ thống bán buôn, bán lẻ, các nhà thuốc trong và ngoài bệnh viện.

Về công tác phối hợp liênngành

Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW và Thông báo số 126-TB/TW của Ban Bí thư, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phối hợp với ngành y tế trong xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện, trong công tác thông tin, tuyên truyền, trong đầu tư, củng cố, nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, trong công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết... Các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ về y tế được cấp ủy, chính quyền các cấp cụ thể hóa trong nghị quyết, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn, gắn với tiêu chí thi đua và xét tặng các danh hiệu hằng năm. 100% các huyện, thành phố và các xã, phường, thị trấn đều thành lập Ban Chỉ đạo chăm sóc sức khỏe Nhân dân do đồng chí lãnh đạo UBND cấp huyện, xã làm Trưởng ban và thành viên là đại diện lãnh đạo các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội tại địa bàn. Do đó, đã tập trung chỉ đạo toàn diện các hoạt động truyền thông - giáo dục sức khỏe, vận động người dân tham gia các hoạt động vệ sinh - phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe, rèn luyện thân thể... tại địa phương.

VƯỢT QUA KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC VÀ RÚT RA NHIỀU BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÝ

Sau 20 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW, 10 năm thực hiện Thông báo số 126-TB/TW, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng với sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn ngành Y tế, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của tỉnh.

Còn không ít những khó khăn, hạn chế như:trong việc tổ chức mạng lưới y tế cơ sở: Sau khi giải thể các phòng khám đa khoa khu vực và sáp nhập một số trạm y tế đã ảnh hưởng đến việc cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại tuyến y tế cơ sở; Về hoạt động của y tế cơsở:Chất lượng khám, chữa bệnh tuyến xã nhiều nơi còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu và sự hài lòng của người bệnh. Khả năng triển khai các dịch vụ kỹ thuật theo phân tuyến tại các trung tâm y tế tuyến huyện còn hạn chế (triển khai thực hiện được 60-70% các dịch vụ kỹ thuật theo phântuyến) ; Hoạt động của các trạm y tế xã chủ yếu tập trung vào công tác tiêm chủng, các hoạt động của Chương trình y tế - dân số, khám chữa các bệnh thông thường, chưa thực hiện tốt việc tầm soát phát hiện bệnh sớm, quản lý bệnh, nhất là các bệnh mạn tính; Công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe một số nơi chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao. Việc kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu còn hạn chế; Trung tâm y tế huyện, thành phố cơ cấu giường bệnh thấp (chỉ có 50 - 90 giường bệnh) nên thiếu nhân lực, cơ sở vật chất, một số chuyên khoa sâu, do đó tỷ lệ người bệnh chuyển đa tuyến còn cao.

Bên cạnh đó, còn không ít khó khăn về nhân lực y tế cơ sở, như số lượng bác sĩ được đào tạo chính quy trên tổng số bác sĩ hiện đang công tác tại tuyến cơ sở thấp, phần lớn đào tạo theo hình thức chuyên tu, liên thông. Việc đào tạo, cập nhật thường xuyên về kiến thức, kỹ năng y khoa còn hạn chế; nhiều nơi không có nhân lực đủ trình độ chuyên môn để thực hiện dịch vụ như các phẫu thuật nội soi về ngoại khoa, thực hiện phẫu thuật, thủ thuật về chuyên khoa lẻ (Mắt, tai mũi họng, Răng hàmmặt). Nhân lực tại trạm y tế xã chưa đủ vế số lượng, cơ cấu chưa phù hợp; chưa thu hút, khuyến khích cán bộ y tế về tuyến cơ sở. Hiện nay, 100% cơ sở khám, chữa bệnh tuyến huyện đã thực hiện tự chủ một phần kinh phí chi thường xuyên nhưng do khả năng cung ứng dịch vụ hạn chế, dẫn đến nguồn thu thấp, thu không đủ chi nên phần lớn cán bộ y tế cơ sở chỉ được hưởng lương theo mức lương cơ sở và hệ số lương, chế độ phụ cấp theo quy định; không có thu nhập tăng thêm ngoài lương.

Đó là chưa kể còn nhiều bất cập trong đầu tư phát triển y tế cơ sở. Cơ sở vật chất một số trung tâm y tế, trạm y tế xuống cấp nhưng chưa được đầu tư cải tạo, nâng cấp; hệ thống dự phòng tuyến huyện chưa có trụ sở làm việc. Ngân sách Trung ương hỗ trợ để thực hiện Chương trình mục tiêu y tế - dân số chậm, ngày càng giảm, trong khi ngân sách địa phương hạn hẹp nên việc bố trí ngân sách chi cho hoạt động đầu tư phát triển y tế cơ sở chưa thỏa đáng. Trang thiết bị y tế phục vụ khám, chữa bệnh và y tế dự phòng còn thiếu, chưa được đầu tư đồng bộ, nhất là một số thiết bị hiện đại nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai và phát triển các dịch vụ kỹ thuật mới. Chưa có cơ chế, nguồn lực để thực hiện việc khám sàng lọc, phát hiện sớm bệnh tật, quản lý các bệnh không lây nhiễm tại cộng đồng.

Vượt qua những khó khăn thách thức để đạt được những kết quả nổi bật, cấp ủy, chính quyền tỉnh Bắc Kạn đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý.

Đó là bài học về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới. Cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực y tế phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Chú trọng công tác đào tạo, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm của cán bộ, nhân viên y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh.

Bài học về công tác tuyên truyền, vận động người dân phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, đa dạng về hình thức và phù hợp với với từng đối tượng, địa bàn.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong các hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, nhất là triển khai các chương trình y tế quốc gia. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh về lĩnh vực y tế; biểu dương, khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, nghiêm khắc phê bình những tổ chức, cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.

Lãnh đạo Sở Y tế trao Bằng công nhận đạt “Bộ Tiêu chí Quốc gia về y tế xã giai đoạn đến năm 2020" cho Lãnh đạo UBND xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể

NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THỜI GIANTỚI

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhândân

Xác định rõ việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng y tế cơ sở là điều kiện cần thiết để phòng bệnh, nâng cao sức khỏe, khám, chữa bệnh góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm công bằng xã hội. Kịp thời tổ chức quán triệt, học tập, tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về y tế cơ sở bằng hình thức đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân trong việc củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở tại địa phương, về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Tiếp tục đưa các mục tiêu, nhiệm vụ về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân vào kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của y tế cơsở

Trạm y tế xã tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định và hướng dẫn của Bộ Y tế, trong đó tập trung thực hiện việc quản lý sức khỏe toàn diện, liên tục cho từng người dân trên địa bàn; chủ động theo dõi, tư vấn về sức khỏe, chăm sóc giảm nhẹ, phục hồi chức năng, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, bà mẹ, trẻ em; phòng, chống các bệnh lây nhiễm, không lây nhiễm, quản lý các bệnh mạn tính; tăng cường cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh và kết nối, chuyển người bệnh lên các cơ sở y tế tuyến trên. Trung tâm y tế tiếp tục nâng cao chất lượng các mặt hoạt động, phát triển các dịch vụ, kỹ thuật y tế, bao gồm cả xét nghiệm và cận lâm sàng; bảo đảm thuận lợi, phù hợp để thực hiện đầy đủ các kỹ thuật điều trị đa khoa và chăm sóc cơ bản, thường xuyên chỉ đạo, hỗ trợ trực tiếp về chuyên môn, gắn kết chặt chẽ hoạt động của các trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã trên địa bàn; xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập trên địa bàn quản lý. Quản lý và sử dụng có hiệu quả quỹ khám, chữa bệnh BHYT và các nguồn kinh phí khác theo đúng quy định.

Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhânlực

Tiếp tục tăng cường nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên khoa, đặc biệt là số lượng y, bác sĩ ở trung tâm y tế để bảo đảm nhân lực cho việc khám bệnh, chữa bệnh phục vụ nhân dân ngay trên địa bàn; bảo đảm nhân lực cho trạm y tế xã để thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu, theo dõi sức khỏe từng người dân. Xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực, đặc biệt là đào tạo nhân lực bác sĩ tuyến huyện, tuyến xã. Xây dựng cơ chế thu hút và chế độ đãi ngộ nguồn nhân lực y tế có trình độ chuyên môn về làm việc tại y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và trong các lĩnh vực y tế dự phòng, pháp y, tâm thần, lao, phong... Tăng cường đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, thực hiện đầy đủ các quy định về đào tạo liên tục, đào tạo qua thực hành cho y tế cơ sở; nâng cao phẩm chất đạo đức, y đức, trình độ lý luận chính trị cho cán bộ y tế cơ sở để nâng cao hiệu quả và chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giảm phiền hà, tạo thuận lợi cho người dân.

Đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động của y tế cơsở

Rà soát, kiến nghị sửa đổi và ban hành định mức chi ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng tuyến huyện phù hợp với từng vùng, điều kiện địa lý, mô hình bệnh tật; bảo đảm đủ tiền lương và các chế độ, chính sách cho viên chức y tế cơ sở, nhân viên y tế thôn, bản. Đẩy nhanh lộ trình BHYT toàn dân; nâng mức hỗ trợ kinh phí đối với người thuộc hộ cận nghèo, hộ nghèo đa chiều, người thuộc hộ nông nghiệp, lâm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT... Tổ chức thực hiện sự gắn kết giữa y tế tư nhân và y tế công lập trong cung ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu trên địa bàn; khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân ngay tại tuyến cơ sở.

Tiếp tục đầu tư để hoàn thiện, nâng cao năng lực hệ thống y tế cơsở

Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho các cơ sở y tế tuyến huyện, trong đó ưu tiên đầu tư cho trung tâm y tế các huyện có cơ sở hạ tầng xuống cấp như Trung tâm Y tế huyện Ngân Sơn, Chợ Mới, Pác Nặm, thành phố Bắc Kạn… Đồng thời, tập trung đầu tư xây mới hoặc cải tạo, nâng cấp trạm y tế xuống cấp, cơ sở hạ tầng chưa đạt chuẩn theo quy định để duy trì 100% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã. Tăng cường công tác vận động, kêu gọi đầu tư, huy động các nguồn lực cho công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân; tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo của các bệnh viện Trung ương…

Nâng cao trách nhiệm của các ngành, đoàn thể trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhândân

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đẩy mạnh công tác truyền thông, phổ biến kiến thức để hỗ trợ người dân biết cách chăm sóc và kiểm soát sức khỏe, có lựa chọn đúng trong sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe; thay đổi hành vi trong chăm sóc sức khỏe, từng bước tạo niềm tin cho người dân đối với dịch vụ y tế tuyến cơ sở.

Tăng cường công tác kiểm tra, giámsát

Thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn; kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.

Trần Thị Lộc

Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bắc Kạn