Kiểm soát lạm phát: Xem xét kỹ nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế

Tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro

Năm 2024, áp lực ạm phát được dự báo không quá lớn, song vẫn tiềm ẩn rủi ro tăng mạnh. Các nhân tố ảnh hưởng tới lạm phát gồm cả khách quan do tác động từ nền kinh tế thế giới và cả các nhân tố từ nội tại nền kinh tế.

Trước hết, lạm phát toàn cầu đã có xu hướng giảm thấp, nhưng vẫn còn ở mức tương đối cao, có thể làm nền kinh tế Việt Nam nhập khẩu lạm phát. Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế thế giới của IMF, lạm phát cơ bản đang trên đà giảm từ mức 9,2% năm 2022 xuống còn 5,9% năm 2023 và có thể sẽ tiếp tục giảm xuống khoảng 4,8% năm 2024. Lạm phát lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, cũng dự kiến giảm xuống 4,5%. Điều này có thể sẽ gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn và làm cho tốc độ phục hồi kinh tế chậm lại.

Cần giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể.

Cùng với việc lạm phát đã giảm đi, nhiều quốc gia có thể thực hiện giảm lãi suất và các biện pháp để giúp nền kinh tế phục hồi và phát triển kinh tế. Kinh tế tăng trưởng tốt hơn, nhu cầu của nền kinh tế thế giới sẽ tăng lên, hoạt động thương mại quốc tế sẽ có thể tăng lên. Tăng trưởng toàn cầu được dự báo đạt 2,4% trong năm 2024, điều chỉnh giảm 0,3% so với 2023. Các đơn đặt hàng xuất khẩu mới trong lĩnh vực sản xuất có thể được tăng trưởng sau thời gian dài suy giảm. Tăng trưởng kinh tế tốt hơn, lạm phát thấp và lãi suất giảm thấp sẽ làm nhu cầu đầu vào của sản xuất mở rộng và khả năng chi tiêu của nền kinh tế tăng trưởng, khả năng tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tốt hơn.

Nhìn vào nội tại nền kinh tế trong nước, hoạt động du lịch, dịch vụ và xuất nhập khẩu trong năm 2023 đã có xu hướng tăng cao. Khi hoạt động du lịch, dịch vụ và hoạt động xuất nhập khẩu tăng trưởng trở lại sẽ đẩy cầu tiêu dùng tăng lên cũng là một nhân tố có thể thúc đẩy lạm phát tăng cao.

Mặt khác, để hỗ trợ các doanh nghiệp phục và phát triển, thời gian gần đây, Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều chính sách miễn, giảm nhiều loại thuế, phí, lệ phí cho các doanh nghiệp, từ đó góp phần giảm sức ép tăng giá các hàng hóa trong nền kinh tế. Khả năng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) sẽ tiếp tục được giải ngân tăng cao trong năm 2024 cũng sẽ là một nhân tố có thể giúp ỷ giá VND so với các ngoại tệ bớt căng thẳng. Nhưng việc giải ngân cao cũng đòi hỏi lượng nguyên nhiên vật liệu, vật tư, lao động và các yếu tố sản xuất tăng cao, đẩy lạm phát tăng cao.

Một yếu tố quan trọng có thể làm gia tăng lạm phát đó là việc Chính phủ đang xem xét cải cách tiền lương theo vùng quy định đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ 1/7/2024. Đây sẽ là nhân tố gây sức ép tăng cung tiền và tăng áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024.

Điều chỉnh lãi suất, tỷ giá linh hoạt

Tại Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 vừa được thông qua trong Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV, một trong những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu được Quốc hội yêu cầu là ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Trong đó, chỉ số CPI bình quân năm 2024 được đặt mục tiêu kiểm soát ở mức 4 - 4,5%. Để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu do Quốc hội đề ra, cần tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế.

Trong đó, giải pháp quan trọng hàng đầu đó là cần chủ động, thực hiện điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Từng bước ổn định và nâng cao giá trị VND, góp phần kìm giữ lạm phát cơ bản để làm cơ sở cho việc kìm giữ CPI. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế; tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa đảm bảo kích thích nền kinh tế hồi phục và phát triển nhanh chóng, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ vay.

Giải pháp tiếp theo cần tập trung đó là việc tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả, đặc biệt sau thời điểm tăng lương khu vực.

Cuối cùng, Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần có sự theo dõi chặt chẽ về sự biến động trên cả thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm tránh các tình huống đột xuất có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường tài chính tiền tệ và lạm phát. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá, tránh các tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả của một số mặt hàng và mặt bằng giá cả của nền kinh tế. Đồng thời, cần có các cơ chế theo dõi, quản lý giá thường xuyên giữa các cơ quan có liên quan và có chế tài xử lý nghiêm khắc để các chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, ngành phải được các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư thực thi một cách toàn diện và nghiêm túc.

PGS.TS Đinh Trọng Thịnh